CHUYÊN ĐỀ I – KỸ THUẬT TRỒNG DÂU
Với những lợi thế trên, có thể nói nghề trồng dâu, nuôi tằm là một nghề mang lại hiệu quả kinh tế cao so với nhiều ngành nghề khác. Trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng hiện nay, cây dâu là một trong những cây được lựa chọn nhằm thực hiện mục tiêu thu nhập 50 triệu đồng/ 1 ha/ năm.
Dâu là cây trồng lâu năm, do vậy trước khi trồng cần chọn giống dâu trồng phù hợp với điều kiện sinh thái, đất đai khí hậu và tập quán thâm canh của từng vùng để phát huy hết hiệu quả của giống.
Hiện nay trong sản xuất có rất nhiều giống dâu đang được trồng. Tuy nhiên, có thể phân thành 4 nhóm dâu chính sau:
– Nhóm giống dâu địa phương:
– Nhóm giống dâu tam bội thể trồng bằng hom:
– Nhóm giống dâu lai F1 trồng bằng hạt:
– Nhóm giống dâu nhập nội:
a/ Nhóm giống dâu địa phương:
Đây là những giống dâu đã được trồng ở các địa phương từ rất lâu như : Dâu bầu, Hà Bắc, Quang Biểu, dâu đa, dâu gỗ…Các giống này có ưu điểm sinh trưởng khoẻ, chống chịu sâu bệnh và điều kiện ngoại cảnh bất lợi khá, nhưng năng suất lá thấp, lá nhỏ, mỏng, hái dai, nhiều hoa quả.
Nhóm giống dâu này phù hợp cho vùng khó khăn, đất nghèo dinh dưỡng.
b/ Nhóm giống dâu tam bội thể trồng bằng hom:
Đây là các giống dâu lai do Trung tâm nghiên cứu dâu tằm tơ TW nghiên cứu, lai tạo chọn lọc, gồm có: tam bội thể số 7, số 12, số 11, số 28. số 36.
– Ưu điểm: Lá to, dầy, sinh trưởng khoẻ. Năng suất lá đạt >35 tấn/ha/năm, chất lượng lá tôt (Hàm lượng Protein trong lá đạt 21 – 22%).
– Nhược điểm: Do nhân giống bằng hom nên khả năng chống chịu sâu bệnh, điều kiện ngoại cảnh bất lợi như chịu hạn, úng, mở rộng nhanh diện tích bị hạn chế.
Nhóm giống dâu này phù hợp cho vùng đất bài ven sông ở vùng đồng bằng sông Hồng và các tỉnh phía Bắc.
c/ Nhóm các giống dâu lai trồng hạt:
– Ưu điểm: Thời vụ trồng quanh năm, hệ số nhân giống cao (1kg hạt có thể trồng 4 – 5 ha), thích ứng rộng với nhiều vùng sinh thái khác nhau (đất bãi ven sông, ven biển, đất đồi…), nhiệm kỳ kinh tế dài hơn trồng hom, chống chịu sâu bệnh, điều kiện ngoại cảnh bất lợi như hạn, úng khá. Lá to, dày, mềm và bóng, năng suất lá 35 – 40 tấn/ ha/ năm, chất lượng lá tốt (Protein trong lá 22-23%).
– Nhược điểm: Do nhân giống bằng hạt nên phải qua giai đoạn trong vườn ươm (50 – 60 ngày).
Nhóm giống dâu này phù hợp với vùng đất bãi ven sông, ven biển, đất đồi các tỉnh phía Bắc và miền Trung.
d/ Nhóm các giống dâu nhập nội:
Chủ yếu là các giống nhập từ Trung Quốc như: Sha nhị luân, Hà số 7, Quế ưu, QĐ5. Tuy nhiên các giống dâu trên đều nhập qua đường tiểu ngạch, chưa qua khảo nghiệm chính thức tại Việt Nam.
– Ưu điểm: Nhìn chung các giống dâu nhập từ Trung Quốc là những giống sinh trưởng khoẻ, lá to, năng suất lá khá (35 tấn/ha).
– Nhược điểm: Nhìn chung các giống dâu lai của Trung quốc hiện trồng ở Việt Nam không thuần, phân ly nhiều.
Với giống Sha nhị luân lá mỏng, nháp, nhiễm bệnh bạc thau, rỉ sắt cao. Còn với giống Hà số 7 nẩy mầm vụ xuân rất muộn (từ 10 – 20 tháng 4 mới nảy mầm).
2. Chuẩn bị đất trồng dâu
Cây dâu có thể trồng được trên nhiều loại đất khác nhau: đất bãi ven sông, ven biển, đất đồi. Độ pH từ 5 – 8. Tuy nhiên đất trồng dâu phải thoát nước, không bị ngập úng lâu ngày. Không nên trồng dâu ở gần khu vực có các ống khói nhà máy, hóa chất độc. Nên qui hoạch vùng dâu riêng, không xen kẽ với các loại cây trồng khác như lúa, rau màu, thuốc lá…, vì khi sử dụng hóa chất, thuốc trừ sâu cho các cây trồng đó sẽ ảnh hưởng đến lá dâu nuôi tằm.
b/ Thiết kế ruộng dâu:
Dâu là cây lâu năm, một lần trồng sau 15 – 20 năm mới phải trồng lại, do vậy phải tính toán thiết kế ruộng dâu để thuận tiện cho việc chăm sóc, thu hoạch như: phân lô, hệ thống mương tưới, tiêu, đường nội đồng…
Trước khi trồng dâu, phải tiến hành điều tra xác định một số yếu tố về đất, nguồn nước tưới, tiêu để xác định các loại vật tư, phân bón chi phí cần đầu tư.
c/ Làm đất:
– Cày bừa: đất cho trồng dâu phải được cày, bừa trước khi trồng từ 1-2 tháng, độ sâu 20-25 cm để cho đất phong hoá hết. Bừa kỹ cho đất nhỏ, kết hợp san phẳng mặt ruộng, vơ cỏ.
– Đào rạch: Đối với trồng dâu bằng cây con cũng như trồng bằng hom dều phải đào rạch (hoặc hố) nhưng kích thước rạch (hố) có khác nhau. Nếu trồng dâu bằng cây con gieo từ hạt: rạch đào sâu 30 cm, rộng 30 cm. Còn trồng dâu bằng hom thì rạch đào sâu 40 cm, rộng 40 cm. Khi đào lớp đất trên mặt để sang một bên, lớp đất dưới để sang một bên.
– Phân bón: đối với dâu trồng mới cần thiết phải bón phân trước khi trồng, Phân hữu cơ 25 – 30 tấn/ha, Phân vô cơ: lân 800 kg, kali 270 kg/ha. Sau khi rải phân hữu cơ xuống rãnh, rải tiếp phân lân và kali, sau đó lấp đất trở lại rãnh, lớp đất trên mặt cho xuống trước, lớp đất phía dưới cho xuống sau.
a/ Trồng dâu bằng cây con gieo từ hạt :
Ở vùng đồng bằng sông Hồng và các tỉnh phía Bắc nếu trồng bằng cây con thì thời vụ trồng có thể kéo dài quanh năm. Nếu ở vùng đất bãi ven sông do ảnh hưởng của nước lũ thì thời vụ trồng nên trồng vào vụ xuân hoặc sau khi đã hết lũ.
Ở những vùng bãi ven biển nhiễm mặn, vùng duyên hải miền Trung nên trồng vào mùa mưa (tháng 8-10)
b/ Trồng dâu bằng hom:
Thời vụ trồng dâu bằng hom tốt nhất vào trung tuần tháng 12 đến tháng 1 năm sau, vì đây là thời điểm cây dâu bước vào ngủ đông, nên hom dâu giống có chất lượng tốt nhất, sau khi trồng xong có mưa xuân rất thuận lợi cho dâu nảy mầm, tỉ lệ sống cao.
4. Mật độ trồng:
Tùy thuộc loại đất, phương thức canh tác và điều kiện đầu tư thâm canh mà xác định mật độ trồng hợp lý. Thông thường mật độ trồng hàng cách hàng 1,2- 1,5m, cây cách cây 0,2- 0,3 m (khoảng 4- 5 vạn cây/ha).Cách tính số lượng cây (hom) cần chuẩn bị để trồng như sau:
Diện tích cần trồng (m2) |
Số cây (hom)/1 đơn vị diện tích = —————————————————
Khoảng cách hàng x khoảng cách cây |
Nếu trồng kép 2 hoặc 3 cây (hom) thì nhân số đã tính toán được với 2 hoặc 3.
Ví dụ: cần trồng 1 ha dâu mới, mật độ hàng cách hàng 1,4 m, cây cách cây 0,3 m, mỗi hố 2 cây thì số cây (hom) phải chuẩn bị là:
10.000
—————— x 2 = 48.000 cây (hom)
1,4 x 0,3
a. Tiêu chuẩn cây dâu giống, hom dâu giống
* Tiêu chuẩn cây dâu giống: cây dâu con được ươm từ hạt trước khi trồng phải đạt một số tiêu chuẩn sau:
– Tuổi cây trong vườn ươm 60-70 ngày trở lên
– Chiều cao cây 30 cm trở lên
– Đường kính thân cây con: 0,02 cm trở lên
– Cây dâu không bị sâu bệnh, không lẫn giống.
Chú ý: Trước khi nhổ cây 15 ngày không được bón đạm để cứng cây.
* Tiêu chuẩn hom dâu giống:
– Hom dâu giống phải đạt từ 8 tháng tuổi trở lên.
– Đường kính hom từ 0,8 cm trở lên.
– Không có nguồn nấm bệnh.
– Không bị lẫn giống.
b/ Xử lý cây giống, hom giống trước khi trồng:
* Đối với dâu cây:
– Phân cây thành từng loại: to, trung bình, nhỏ để trồng riêng từng loại.
– Cắt bỏ phần ngọn chỉ chừa lại phần thân 20 – 30 cm.
– Nếu rễ cây con quá dài có thể cắt bớt, chỉ chừa lại 10 – 15 cm.
– Bảo quản cây giống nơi râm mát, giữ ẩm.
* Đối với hom giống
– Loại bỏ cành có nguồn nấm bệnh, rệp, phần ngọn và gốc.
– Chặt hom thành từng đoạn 20 – 25 cm, có ít nhất 2 – 3 mắt/ 1 hom.
– Khi chặt tránh làm dập, xước hom,
– Bảo quản hom nơi râm mát, giữ ẩm.
6. Kỹ thuật trồng dâu
1. Giai đoạn trong vườn ươm
2. Giai đoạn nhổ đem trồng ở ruộng sản xuất.
* Giai đoạn trong vườn ươm: Thời gian trong vườn ươm thường 50 – 60 ngày. Khi cây trong vườn ươm đạt chiều cao 40 – 50 cm, đường kính thân đạt 0,3 cm trở lên thì nhổ đem trồng.
Một số điểm cần lưu ý khi ươm hạt dâu:
– Chọn đất ươm: cao, thoát nước tốt, độ pH 6 – 7, gần nguồn nước tưới, xung quanh không có cây cao che khuất, nên chọn đất cát pha hoặc đất thịt nhẹ.
– Lám đất ươm: cày bừa kỹ trước khi gieo 1 – 2 tháng, sạch cỏ. Bề mặt luống rộng 1,0 – 1,2 m, rãnh rộng 0,30 m, sâu 0,20 m. Phân chuồng hoai mục 500 kg/ sào, trộn đều.
– Xử lý hạt trước khi gieo: Nếu gieo ở vụ xuân và vụ thu hạt phải được ngâm ủ trước khi gieo. Hạt dâu ngâm trong nước ấm 48 giờ. Sau 24 giờ thay nước, rửa sạch hạt rồi ngâm tiếp 24 giờ. Đãi sạch hạt, trộn với mạt cưa hoặc cát ướt cho vào túi vải đem ủ nơi ấm, chú ý giữ đủ ẩm. Sau 24 giờ hạt nứt nanh thì đem gieo.
– Mật độ gieo: 1 kg hạt dâu có khoảng 50 – 55 vạn hạt. Mật độ gieo trung bình 0,10 – 0,12 kg/100 m2 là vừa (khoảng 500 – 550 hạt/m2).
– Phương pháp gieo: Có thể gieo vãi hoặc gieo thành hàng. Sau khi gieo hạt phải rắc thuốc chống kiến xung quanh luống để phòng kiến tha hạt dâu. thường dùng VIBAM, 1kg/sào.
– Che phủ sau khi gieo hạt: Sau khi gieo hạt xong phải che phủ lướng ươm bằng trâu, rơm rạ. Nếu vụ xuân trời rét nên phủ ni lon để chống rét. Nếu không che phủ khi trời mưa hoặc khi tưới nước bề mặt luống bị lì, hạt khó nảy mầm. Khi hạt nảy 80% phải bỏ bớt lớp rơm rạ phủ mặt luống chỉ để lại một lớp mỏng. Nếu gieo vào vụ hè phải có lưới che chống mưa to làm dập nát cây con.
– Tưới nước: Sau khi gieo xong hàng ngày phải tưới nước đủ ẩm cho đến khi hạt nảy hết, Sau khi cây có lá thật có thể 2 – 3 ngày tưới 1 lần.
– Thu hoạch cây con: Khi cây con đạt tiêu chuẩn thì nhổ đem trồng. Trước khi nhổ cần tưới đẫm nước để hạn chế đứt rễ. Nếu chưa trồng ngay hoặc phải vận chuyển đi xa cần bảo quản nơi thoáng mát, giữ ẩm, vận chuyển lúc trời mát.
* Kỹ thuật trồng dâu bằng cây con:
– Khi đặt cây dâu không để rễ cây tiếp xúc trực tiếp với lớp phân bón ở rãnh.
– Giữ cho rễ cây dâu con thẳng, không bị cuộn lại.
– Lấp đất kín phần cổ rễ.
– Nén chặt đất xung quanh gốc.
Chú ý: khi lấp đất xuống rãnh chỉ lấp 2/3 chiều sâu của rãnh. Sau khi đặt cây dâu xuống rãnh giữ cho cây thẳng, lấp tiếp phần đất còn lại sao cho luống dâu cao hơn ở rãnh 10 – 15 cm để khi mưa không bị đọng nước ở gốc.
b/ Trồng dâu bằng hom:
– Hom dâu được cắm xiên một góc 150, mỗi khóm cắm 2-3 hom, nén chặt đất xung quanh gốc.
7. Chăm sóc quản lý ruộng dâu sau trồng
a/ Tưới nước, thoát nước
* Tưới nước: Đối với dâu trồng bằng cây con và trồng bằng hom sau khi trồng xong đều phải tưới nước cho chặt gốc, giữ đủ ẩm cho cây để phục hồi bộ rễ (với dâu trồng cây con) và ra rễ nhanh (với trồng hom). Với dâu cây trồng vào vụ hè nếu không tưới nước sẽ giảm tỉ lệ sống, khả năng hồi phục của cây chậm, sau đó cứ 3 – 4 ngày tưới 1 lần cho đến khi mầm dâu phát triển được 10 – 15 cm.
* Thoát nước: Sau khi trồng nếu gặp mưa lớn kéo dài gây ngập úng ruộng dâu phải thoát nước kịp thời. Nếu để ruộng dâu ngập nước kéo dài cây dâu sẽ bị héo lá, vàng úa và chết.
b/ Trồng dặm
Sau trồng 10 – 15 ngày (với trồng dâu cây), 25 – 30 ngày (với trồng hom), dâu sẽ nảy mầm. Cần kiểm tra phát hiện trồng dặm những cây bị chết, khuyết để đảm bảo mật độ.
c/ Làm cỏ
d/ Bón phân
Khi cây đã nảy mầm, phát triển mầm dâu cao khoảng 25 – 30 cm tiến hành bón phân thúc cho cây dâu.
Lượng bón: 50 – 60 kg ure/ha, độ sâu 10 cm, cách gốc dâu 10 – 15 cm.
Giai đoạn đầu đối với dâu mới trồng có thể bón phân qua lá. Phun vào buổi sáng hoặc cuối buổi chiều khi trời râm mát, không phun khi trời sắp mưa hoặc nắng to. Sau đó cứ 2 tháng lại bón tiếp một lần phân u rê. Lượng bón tăng dần lên 120 – 125 kg/ha (4 – 5 kg/sào). Đến khi dâu cho thu hoạch lá lượng bón 150 – 200 kg N-P-K/ ha.
Cây dâu ở giai đoạn mới trồng bị nhiều loại sâu bệnh phá hoại như: dế, sâu róm, sâu cuốn lá, sâu khoang, sâu xám, rệp, xén tóc…và một số bệnh do nấm, vi khuẩn phá hoại. Vì vậy cần thường xuyên kiểm tra, phát hiện sớm để phòng trừ kịp thời (theo quy trình phòng trừ sâu bệnh ở phần sau)
g/ Thu hoạch lá:
Đối với ruộng dâu mới sau khi trồng 4 – 5 tháng (với dâu trồng cây) hoặc 6 – 7 tháng (với dâu trồng hom) có thể thu hoạch lá cho nuôi tằm. Tuy nhiên, Việc khai thác lá ở ruộng dâu mới trồng dựa vào nguyên tắc: “Khai thác là phụ, bồi dưỡng cây là chính” khi cây dâu sinh trưởng đạt chiều cao 1 mét trở lên có thể khai thác từ 30 – 40 % lượng lá có trên cây. Tuyệt đối không khai thác lá khi cây còn nhỏ.
QUẢN LÝ RUỘNG DÂU SẢN XUẤT
(Năm thứ hai trở đi)
a/ Đốn tạo hình:
– Mục đích: đốn tạo hình để tăng số mầm/cây, từ đó tăng năng suất lá.
– Thời vụ đốn: đốn tạo hình cần tiến hành vào vụ đông khi cây dâu đã sinh trưởng được 8 – 12 tháng.
– Phương pháp đốn: đốn cách mặt đất 15 – 20 cm, vết đốn hơi vát, tránh làm dập nát, xước vết đốn ảnh hưởng đến nảy mầm và sâu bệnh dễ xâm nhập. Không nên đốn dâu khi trời đang mưa to.
Sau khi đốn đến vụ xuân trên thân chính sẽ nảy một số mầm. Khi mầm dâu cao 20-30 cm tiến hành tỉa định mầm. Mỗi gốc chỉ để lại 2 – 3 mầm khỏe. Từ vụ đông năm thứ 3 trở đi đốn cách vết đốn cũ 3 – 4 cm.
b/ Đốn hàng năm để thu hoạch lá:
– Đốn đông: thời điểm đốn trước sau đông chí một tuần là thích hợp, cây dâu ít bị ảnh hưởng đến sinh lý, Nhưng cây dâu lại cho lá nhiều vào vụ hè không thuận tiện cho nuôi tằm.
– Đốn hè: Để dâu lưu không đốn sát vào vụ đông mà chỉ phớt phần ngọn 20-30 cm. Sang vụ xuân lấy lá nuôi tằm xuân. Đến cuối tháng 4 đầu tháng 5 đốn hè.
Phương pháp đốn này có ưu điểm cho lá nhiều ở vụ xuân thích hợp cho nuôi tằm chất lượng cao. Nhưng có nhược điểm là thời vụ đốn vào tháng 5 thời tiết nắng nóng, mưa nhiều nên khi đốn ít nhiều có ảnh hưởng đến sinh lý cây dâu.
Để hạn chế nhược điểm này cần chú ý đốn luân phiên giữa đốn đông và đốn hè. Diện tích năm nay đốn hè thì năm sau đốn đông.
Ngoài hình thức đốn sát còn đốn lửng, đốn phớt:
– Đốn lửng: thường đốn vào vụ thu tháng 8 – 9, đốn cách mặt đất khoảng 1 mét để tăng số mầm nẩy, tăng năng suất lá ở vụ thu.
– Đốn phớt: áp dụng cho ruộng dâu để lưu đông. Khi nuôi xong lứa tằm cuối cùng đến tháng 12 cắt bỏ phần ngọn 20-30 cm, kích thích dâu nảy mầm ở vụ xuân đều, tập trung.
Cỏ dại không những cạnh tranh dinh dưỡng với cây dâu, mà nó còn là nơi ẩn náu của các loại sâu bệnh, côn trùng hại cây dâu. Cỏ dại trong ruộng dâu phải được làm ở giai đoạn còn non, trước khi cỏ kết hạt và phát tán, hạn chế tối đa sinh trưởng của chúng. Ngoài việc làm cỏ bằng tay có thể sử dụng thuốc trừ cỏ để tiết kiệm lao động.
Thông thường đối với cây dâu có thể dùng loại thuốc trừ cỏ LYPHOXIM 41SL. Đây là loại thuốc trừ cỏ không chọn lọc, lưu dẫn, diệt cỏ hậu nảy mầm, diệt được nhiều loại cỏ. Đặc biệt là rất an toàn với môi trường và người sử dụng, không lưu tồn trong đất. Sau khi phun thuốc 24 giờ cỏ bắt đầu ngừng sinh trưởng, không còn khả năng cạnh tranh nước và dinh dưỡng với cây trồng. Phun thuốc trừ cỏ LYPHOXIM 41SL vào giai đoạn cỏ phát triển mạnh thân, lá là hiệu quả nhất. Cần lưu ý dùng nước trong để pha thuốc, phun đều khắp lá cỏ, không phun thuốc trên đất ngập nước, không phun vào mầm dâu đang phát triển sẽ làm xoăn lá.
– Cách pha: 100 ml thuốc pha với 10 lít nước trong.
– Liều lượng phun: 20 lít dung dịch thuốc/ sào Bắc bộ.
3. Cày bừa ruộng dâu:
Sau khi đã đốn dâu, làm cỏ xong tiến hành cày bừa rãnh dâu. Độ sâu cày 15-20 cm, sát gốc dâu, sau đó dùng cuốc cuốc xung quanh gốc dâu. Mục đích là để làm cho đất thoáng, tăng khả năng giữ nước đồng thời phơi gốc dâu để tiêu diệt các nguồn sâu bệnh qua đông ở dưới gốc dâu.
4. Bón phân cho dâu:
Trong quá trình sinh trưởng cây dâu hút rất nhiều các loại dinh dưỡng trong đất, vì vậy nếu không bón bổ xung dinh dưỡng sẽ ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng lá dâu.
a/ Bón phân hữu cơ:
Phân hữu cơ ngoài tác dụng cung cấp chất dinh dưỡng cho cây dâu nó còn làm cho đất tơi xốp.
– Lượng bón: thông thường bón 20 – 25 tấn/ha/năm
– Thời điểm bón: bón 1 lần vào tháng 12 sau khi đã cày, cuốc phơi gốc dâu, kết hợp với bón phân vô cơ lần 1, sau đó vun đất lại gốc dâu.
Ngoài phân hữu cơ, phân vô cơ rất cần thiết để nâng cao năng suất chất lượng của lá dâu. Hiệu quả của bón phân thay đổi phụ thuộc vào phương pháp bón, thời điểm bón. Vì vậy bón phân cho dâu cần đảm bảo nguyên tắc: đủ lượng, cân đối, đúng lúc, đúng cách mới phát huy tối đa hiệu quả của phân bón. Hiện nay có nhiều loại phân đa yếu tố N-P-K chuyên dùng cho cây dâu, bao gồm các loại phân N-P-K bón cho ruộng dâu dùng nuôi tằm kén giống, kén ươm (cho các loại đất khác nhau: đất bãi, đất mặn ven biển, đất đồi). Khi sử dụng phân N-P-K chuyên dùng cho cây dâu không phải bón thêm bất kỳ loại phân vô cơ nào khác. Phân đa yếu tố NPK ngoài việc sử dụng tiện lợi, nâng cao năng suất, chất lượng lá dâu còn tác dụng tăng cường khả năng đề kháng với sâu bệnh cho cây dâu và con tằm, tăng chất lượng tơ kén và trứng giống.
– Số lần bón: lá dâu là sản phẩm chính thu hoạch để nuôi tằm. Một năm khai thác nhiều lứa. Do vậy bón phân vô cơ làm nhiều lần sẽ làm tăng thêm hiệu quả phân bón và tăng chất lượng lá dâu cho nuôi tằm. Thông thường phân vô cơ nên bón 4 – 5 lần/năm vào các tháng 1, 3, 5, 7 và 9.
– Liều lượng bón: Tùy loại đất, tập quán thâm canh, mật độ trồng mà lượng bón có khác nhau. Thông thường bón 1.800 – 2.000 kg phân đa yếu tố N-P-K chuyên dùng cho dâu/1 ha/1 năm.
– Phương pháp bón: có thể bón theo hốc hoặc rạch. Cuốc sâu 15 cm, cách gốc 20 cm, rải phân sau đó lấp đất kín lại để tránh bị rửa trôi khi gặp mưa to.
Ngoài ra có thể sử dụng phương pháp bón phân qua lá để tăng chất lượng lá dâu, nhất là ở vụ thu. Tuy nhiên khi sử dụng phân phun qua lá cần chú ý phun vào lúc trời mát, không phun vào lúc trời sắp mưa.
5. Thu hoạch lá dâu:
Thu hoạch lá dâu đúng kỹ thuật, đúng lứa có tác dụng làm tăng sản lượng và chất lượng lá dâu. Thông thường một năm có thể thu hoạch 8-10 lứa. Nếu thu hoạch đúng lứa có thể tăng số lứa hái.
– Phương pháp thu hoạch: Ở nước ta phương pháp hái lá là chủ yếu. Cần chú ý khi hái lá tránh làm xước thân cây, gẫy cành sẽ ảnh hưởng đến năng suất lứa sau, sâu bệnh dễ thâm nhập qua vết xước.
– Phương pháp bảo quản lá dâu: Lá dâu khi thu hoạch về phải bảo quản đúng cách, không để quá dày dâu bị ôi héo, giảm chất lượng, cũng không để quá mỏng lá dâu nhanh bị héo.
Phòng bảo quản dâu phải đảm bảo vệ sinh, đủ ẩm để lá dâu tươi lâu. Có thể dùng bình bơm xịt nước tăng ẩm để bảo quản lá dâu lâu hơn.
6.1. Một số bệnh chính hại cây dâu:
a/ Bệnh bạc thau:
* Triệu chứng và nguyên nhân: Bệnh bạc thau phân bố rất rộng. Tuỳ theo khí hậu từng vùng mà thời kỳ phát bệnh có khác nhau, nhưng nói chung bệnh thường xuất hiện ở mùa xuân, mùa thu. Lá dâu bị bệnh nhẹ thì chất lượng giảm, nếu bị nặng thì tằm không ăn, chỉ bò lên mặt trên của lá.
Nguyên nhân gây bệnh là do nấm Phillactinia Moricola. Saw. Đầu tiên mặt dưới của lá xuất hiện các vết bệnh mầu trắng, lúc đầu nhỏ, sau loang to dần, rồi chuyển thành mầu vàng nâu và chứa rất nhiều hạt phấn, bao gồm các sợi nấm và conidi. Các conidi phát tán nhờ gió, bám vào mặt dưới của lá. Khi nhiệt độ, ẩm độ thích hợp chúng nẩy mầm và phát triển.
* Biện pháp phòng trừ:
– Biện pháp kỹ thuật:
+ Trồng các giống dâu có khả năng kháng bệnh cao
+ Mật độ trồng dâu hợp lý, không trồng quá dày
+ Bón phân đủ lượng, cân đối.
+ Vệ sinh đồng ruộng, tạo thông thoáng, xử lý tàn dư bệnh.
+ Khai thác lá đúng lứa.
+ Làm cỏ thường xuyên.
– Dùng hóa bảo vệ: Phun thuốc phòng trừ dịch hại phát triển khi đến ngưỡng phòng trừ.
+ Các loại thuốc sử dụng: Anvil 5 SC 2‰, Carbenda Zim 500 FL 2‰ Benlat- CBTN 4 gr/lít, Kasuran 20 BTN 4 gr/lít để phòng trừ.
+ Thời gian cách ly với tằm 7-10 ngày.
b/ Bệnh gỉ sắt:
– Nguyên nhân, tác hại của bệnh:
Bệnh gỉ sắt gây ra do nấm Aecidium mori (Barel). Lúc đầu vết bệnh có mầu vàng nhạt, sau đó chuyển dần thành mầu vàng da cam, vàng nâu. Trên bề mặt vết bệnh có chứa rất nhiều bào tử dạng như bột mầu vàng tươi. Hình dạng vết bệnh có hai loại dài và tròn. Lá dâu bị bệnh gỉ sắt chất lượng lá giảm đi, lá khô cứng, tằm ăn rất ít, hoặc không ăn. Mầm dâu bị nhiễm bệnh ở mức độ nặng bị uốn công lại, không sinh trưởng tiếp được, rất dễ bị gẫy. Nấm gỉ sắt qua đông trên cành dâu, đến mùa xuân nẩy mầm và phát tán nhờ gió. Khi nhiệt > 30*c, ẩm đọ thấp thì phát triển của nấm bị cản trở.
– Biện pháp phòng trừ:
+ Chọn trồng giống dâu chống chịu bệnh: Thông thường những giống có bề mặt lá thô, nháp thì bị bệnh nặng hơn những giống có lá bóng, nhẵn.
+ Mật độ trồng vừa phải để tạo cho ruộng dâu thông thoáng.
+ Bón phân cân đối, không nên bón quá nhiều đạm.
+ Thu hái lá đúng lứa.
+ Khi bệnh đã phát triển đến ngưỡng phòng trừ (chỉ số bệnh: 15-20%) có thể sử dụng các loại thuốc sau để phun: Anvil 5 SC 2‰, Carbenda Zim 500 FL 2‰, Benlat- CBTN 4 gr/lít, Kasuran 20 BTN 4 gr/lít .
Liều lượng phun: 20 – 25 lít/sào bắc bộ (360m2).
Thời gian cách ly với tằm là 7- 10 ngày.
c/ Bệnh mề gà:
– Nguyên nhân, tác hại của bệnh: Bệnh mề gà (bệnh cao dán) phát sinh ở mặt ngoài cành, thân dâu.Sau khi cây dâu bị bệnh, trên lớp vỏ cành phát sinh một số vết bệnh có hình tròn to nhỏ khác nhau.có mầu nâu đen hoặc mầu tro giống miếng cao dán ở lớp vỏ. Vết bệnh lan dần ra, bao trùm lên cây và cành dâu, làm cho mầm dâu không nẩy được.
Nguyên nhân gây bệnh là do 2 loại nấm Septobasidium bogoriense và Septobasidium tanakae gây nên.
Thường bệnh cao dán xuất hiện trên cây dâu cùng với sự xuất hiện của rệp vẩy ốc. Sợi nấm của bệnh này bám vào các chất mà rệp vẩy ốc tiết ra để nẩy mầm, phát triển thành các sợi nấm, cho nên rệp vẩy ốc là môi giới lan truyền của bệnh.
– Biện pháp phòng trừ:
+ Vệ sinh đồng ruộng, tiêu nước kịp thời.
+ Diệt trừ môi giới lan truyền bệnh là rệp vẩy ốc bằng thuốc difterex nồng độ 0,02% phun. Thời gian cách ly sau phun 10-12 ngày.
d/ Bệnh xoăn lá:
– Triệu chứng, nguyên nhân, tác hại:
Bệnh xoăn lá ở cây dâu biểu hiện qua một số đặc trưng sau: lá nhỏ lại, uốn cong về phía mặt dưới. Đôi khi hình thái của lá thay đổi, lá dài ra, cành của cây bị bệnh phát triển kém, biểu hiện cành nhỏ, ngắn, đốt ngắn, mầm nách nẩy sớm, nẩy nhiều nên tạo ra nhiều cành tăm. Khi bệnh nặng các cành tăm khô, chết. Bệnh xoăn lá thường xuất hiện nhiều ở ruộng dâu đốn hè.
Con đường lây lan của bệnh là do côn trùng môi giới là con rầy chích hút lá dâu bị bệnh rồi truyền sang cây khác làm lây lan bệnh rất nhanh.
– Biện pháp phòng trừ:
+ Chọn giống chống chịu bệnh.
+ Không để ruộng dâu bị úng ngập lâu.
+ Bón phân cân đối NPK.
+ Thời vụ đốn dâu hợp lý, hạn chế đốn trái vụ liên tục nhiều năm.
+ Xử lý sớm, nhổ bỏ cây bị bệnh, hạn chế nguồn bệnh lây lan.
+ Phun thuốc diệt côn trung môi giới lan truyền bệnh.
+ Không dùng cây con hoặc hom dâu bị bệnh để trồng.
Ngoài các bệnh nói trên, ở cây dâu còn xuất hiện một số bệnh như: Bệnh nấm tím, bệnh do vi khuẩn làm khô, đen cành, thối rữa cành, rễ dâu…
6.2. Sâu hại cây dâu:
Cũng như các cây trồng khác, cây dâu bị nhiều loại sâu phá hoại ở lá, mầm, thân, cành, hoa quả dâu.
Một số loại sâu chính hại cây dâu thường gặp: Sâu cuốn lá, rệp, bọ gạo, dế, sâu đo, sâu đục thân, sâu róm…
a/ Sâu cuốn lá:
Sâu cuốn lá có tên khoa học là Diaphania pyloalis Walkor, là loại côn trùng thuộc bộ cánh vẩy.
– Phân bố và tác hại:
Sâu cuốn lá xuất hiện ở rất nhiều nước trên thế giới. Sâu cuốn lá hại chủ yếu ở mùa hè, mùa thu. Trong điều kiện thời tiết khô hạn, sâu cuốn lá phát triển rất nhanh thành dịch, phá hoại nghiêm trọng, làm cho vườn dâu bị khô vàng. Phân của sâu thải ra dính ở mặt lá dâu, khi tằm ăn vào rất dễ phát sinh bệnh táo bón.
– Hình thái và tập tính sâu cuốn lá:
Sâu trưởng thành nhỏ, dài khoảng 10 mm, mầu xám, có lớp lông trắng. Cánh ở mép trước có một số vân mầu nâu, chính giữa cánh có một số vân mầu vàng. Phía dưới cánh có một lỗ hình tròn. Cánh sau có mầu trắng sữa. Trứng của sâu cuốn lá có hình tròn, kích thước 0,7 x 0,4 mm, mầu vàng nhạt. Mặt ngoài của trứng có chất sáp và có tính phản quang.
Sâu non lúc mới nở toàn thân có lớp lông, thân có mầu xanh nhạt. Qua 4 lần lột xác thì đẫy sức, lúc này thân của sâu có mầu vàng. Chiều dài của sâu dài khoảng 24 mm, các đốt bụng có 4 – 6 điểm đen.
Sâu qua đông ở thời kỳ nhộng, nhộng non dài khoảng 23 mm, lúc nhộng già dài khoảng 19 mm, nhộng có mầu vàng nâu.
Sâu cuốn lá 1 năm có 8 – 10 lứa, Lứa cuối cùng, khi sâu non đã đẫy sức, nó tìm các kẽ hở ở cây dâu kết kén để qua đông. Sang mùa xuân năm sau, sâu non hoá nhộng sau đó vũ hoá để đẻ trứng. Trứng thường đẻ ở mặt dưới của lá, trung bình 1 con bướm đẻ 170 – 200 quả trứng. Thông thường sau 5 – 7 ngày trứng nở ra sâu non. Khi mới nở sâu non tập trung ở mặt dưới của lá, ăn phần thịt lá và biểu bì dưới. Sau tuổi 3, sâu nhả tơ và cuộn lá lại, ẩn ở bên trong để ăn lá dâu. Sau khi ăn hết lá này sâu lại chuyển sang lá khác. Khi cây dâu bị ăn hết lá, sâu non nhả tơ, nhờ gió đu đưa để chuyển sang cây khác, tiếp tục gây hại. Sâu non khi đã già cuộn lá lại làm kén hoá nhộng, vũ hoá rồi lại đẻ trứng nở ra lứa khác. Lứa cuối cùng trong năm mới qua đông ở thời kỳ sâu non.
– Biện pháp phòng trừ:
+ Vệ sinh đồng dâu vào vụ đông sau khi đốn đông cày lật đất, cuốc đất xung quanh gốc dâu, để phơi gốc dâu 5 – 7 ngày để diệt các loại trứng, ấu trùng qua đông dưới gốc dâu.
+ Nếu sâu mới xuất hiện với số lượng ít, dùng lao động thủ công ngắt các lá có sâu đem đốt, chôn. Nếu sâu đã phát triển mật độ lớn dùng thuốc difterex để phun. Nồng độ phun 0,25% (25 gr thuốc pha với 10 lít nước), khuấy cho tan hết thuốc, phun đều cả mặt trên và dưới của lá. Liều lượng phun: 20 – 25 lít dung dịch thuốc/1 sào Bắc bộ.
+ Thời gian cách ly: sau phun 8 – 10 ngày có thể hái lá cho tằm ăn.
Chú ý: – Phải tiến hành phun đồng loạt thì hiệu quả mới cao.
– Nên chọn thời điểm phun trước giai đoạn tuổi 3 là hiệu quả nhất, vì lúc này sâu non chưa cuộn lá lại nên khả năng tiếp xúc của thuốc là tốt nhất.
– Nên phun lúc trời mát , nếu phun xong gặp mưa thì phải phun lại.
b/ Rệp vẩy ốc: Rệp vẩy ốc có tên khoa học Pseudaulacapsispentagona.
– Tập tính và tác hại:
Sâu non và sâu trưởng thành đều tập trung ở trên cành dâu để hút nhựa, làm cho cành dâu khô héo rồi chết. Nếu rệp ký sinh ở mầm nách làm cản trở sự nẩy mầm. Nếu ký sinh ở phần cổ rễ cây dâu con thì làm cho toàn cây héo. Rệp vẩy ốc phát triển và lây lan rất nhanh, một năm có từ 3 – 5 lứa. Mỗi con rệp cái có thể đẻ 200 quả trứng. Sau khi giao phối xong thì con đực chết. Sau khi đẻ trứng xong con cái cũng chết. Đến tháng 12 sâu trưởng thành qua đông. Sang vụ xuân năm sau, khi cây dâu bắt đầu nẩy mầm thì rệp bắt đầu hoạt động chích hút nhựa cây.
– Biện pháp phòng trừ:
+ Sử dụng hom dâu, cây dâu con đem trồng không có rệp.
+ Mật độ trồng hợp lý, tạo độ thông thoáng cần thiết cho ruộng dâu.
+ Cuối năm phải vệ sinh ruộng dâu, thu thập những cành dâu có rệp đem đốt.
+ Dùng dung dịch lưu huỳnh – vôi 0,2- 0,3*B hoặc Bi58 0,1% phun.
+ Có thể dùng dung dịch hỗn hợp nước, xà phòng, dầu hỏa để phun.
Công thức: 1/2 kg xà phòng (hoặc dầu rửa bát) + 1 lít dầu hỏa + 25 lít nước. Khuấy đều cho tan để phun hoặc dùng vải thấm để lau. Phương pháp này dễ làm, hiệu quả cao, không ảnh hưởng đến lá dâu nuôi tằm.
C/ Rệp phấn hại dâu:
– Tập tính và tác hại:
Rệp phấn có tên khoa học: Anomoneura Mori. Rệp phấn xuất hiện gần như các tháng trong năm, nhưng tập trung hại nặng nhất ở vụ xuân. sâu non hút nhựa làm cho lá bị xoăn lại, mất độ bóng. Trong một năm rệp phát sinh nhiều lứa. Rệp qua đông ở thời kỳ nhộng. Con trưởng thành đẻ trứng ở phần ngọn và mặt dưới của lá. Sau 6 – 7 ngày trứng nở. Một con cái có thể đẻ 200-300 quả trứng.
– Biện pháp phòng trừ:
+ Mật độ trồng hợp lý, tạo thông thoáng ruộng dâu.
+ Nếu mật độ nhiều có thể dùng Bi58, Difterex 0,2% phun. Liều lượng 25 lít dung dịch thuốc/sào Bắc bộ. Thời gian cách ly 10 – 12 ngày mới hái lá cho tằm ăn.
Ngoài ra cây dâu còn bị một số sâu phá hoại khác như: Sâu đục thân, sâu đo, sâu róm, sâu xám, sâu khoang, bọ dừa, dế…