BỆNH HẠI DÂU
Trên cây dâu cũng như các loại cây trồng khác có rất nhiều loại bệnh gây hại và có thể hại trên tất cả các bộ phận của cây. Có những loại ở từng giai đoạn phát triển khác nhau sẽ gây hại ở các bộ phận khác nhau của cây dâu. Nguyên nhân là do các vi sinh vật gây hại như: nấm, vi khuẩn, virus, viroid, hay tuyến trùng và bệnh sinh lý…. Chúng có mặt và gây hại hầu hết trên tất cả các vùng trồng dâu nuôi tằm trên thế giới.
Sự gây hại của bệnh đều ảnh hưởng đến sự sinh trưởng phát triển cây dâu, lảm giảm năng suất phẩm chất của lá dâu, từ đó làm ảnh hưởng đến sức sống con tằm và năng suất chất lượng tơ kén. Sau đây là một số bệnh hại trên cây dâu thường gặp ở Việt Nam và các biện pháp phòng trừ.
I. Bệnh nấm
1.1. Bệnh Bạc thau
– Triệu chứng bệnh:
Khi bệnh còn nhẹ, mặt dưới của lá xuất hiện vết lốm đốm màu trắng, sau vết bệnh loang dần rồi chuyển thành màu vàng nâu và có chứa nhiều hạt phấn trắng. Hạt phấn trắng này có chứa các sợi nấm và conidi. Sợi nấm sinh sản ra rất nhiều conidi. Conidi phát tán nhờ gió bám vào cành cây, thân cây qua đông. Mùa xuân, sợi nấm và conidi bám được vào mặt dưới lá nảy mầm xâm nhập vào bên trong qua tế bào khí khổng lá.
Bệnh do một loại nấm Phyllactinia moricola.Saw gây ra. Bệnh phân bố rộng khắp ở hầu hết các vùng trồng dâu nuôi tằm. Các vùng sinh thái khác nhau có thời gian phát bệnh khác nhau.
– Đặc điểm phát sinh phát triển bệnh:
Nấm bạc thau có thể nảy mầm trong điều kiện ẩm độ từ 30-100%. Nhiệt độ thích hợp nhất để nấm sinh trưởng phát triển là 230C – 250C và Ẩm độ thích hợp nhất là 70-80%.
Thông thường, bệnh xuất hiện gây hại tập trung vụ xuân và vụ thu. Duyên hải miền Trung và Bắc bộ bệnh thường xảy ra trong vụ xuân từ tháng 2 đến tháng 4. Mùa hè do nhiệt độ quá cao trên 300C không thuận lợi cho sự sinh trưởng của nấm bệnh nên bệnh ít phát triển.
Lá bị bệnh nhẹ tằm vẫn có thể ăn được nhưng lượng dâu giảm, chất lượng lá kém nên tằm dễ bị bệnh, còn khi bị bệnh nặng lá có mùi hôi, tằm không ăn.
Các vùng miền núi nhiệt độ thấp, nơi có mạch nước ngầm thấp, hoặc ở ruộng dâu trồng quá dày, khái thác không triệt để, ruộng dâu không được thông thoáng hoặc bón thiếu phân kali thì bệnh hại rất nặng.
– Biện pháp phòng trừ:
+ Trồng dâu với mật độ vừa phải để lá dâu có đủ ánh sáng, tạo độ thông thoáng.
+ Vệ sinh đồng ruộng, thu hái lá già, lá bệnh để tiêu huỷ nhất là vụ cuối thu.
+ Chọn giống kháng bệnh.
+ Bón cân đối NPK
+ Thu hoạch đúng lứa, hái lá kịp thời.
+ Sử dụng thuốc hoá học: Phun Ben lat-C diệt nguồn bệnh sau khi đốn. Sử dụng Ben lat C, Anvil phun định kỳ 20 ngày/lần trong mùa bệnh hay xảy ra. Cách ly nuôi tằm 7-10 ngày. Hoặc phun dung dịch lưu huỳnh vôi 0,3-0,4oB vào vụ cuối thu.
1.2. Bệnh gỉ sắt
– Triệu chứng bệnh:
Bệnh thường gây hại trên lá, cuống lá, gân lá, hoa, quả và trên cành. Phần bị hại trên lá có vết đốm màu vàng hoặc màu vàng nâu trên cả 2 mặt của lá. Trên bề mặt vết bệnh có chứa nhiều bào tử dạng bột màu vàng tươi. Mầm hoặc lá bị nấm ký sinh vết bệnh phình to ra. Khi bị bệnh nặng, mầm dâu không sinh trưởng được, dễ bị gãy. Lá bị uốn cong, dị hình, năng suất chất lượng giảm, lá trở nên khô cứng tằm ăn rất ít hoặc không ăn.
Hình dạng vết bệnh có hai loại: Nấm ký sinh ở mầm mới, cuống lá, gân lá, hoa, quả và trên cành thì vết bệnh hình dài, nếu nấm ký sinh vào phần thịt lá thì vết bệnh có hình tròn
– Nguyên nhân gây bệnh:
Nguyên nhân do nấm Aecidium mori Syd.et Butler thuộc nhóm nấm đảm Bacidiomycetes gây bệnh gỉ sắt. Nấm gỉ sắt qua đông trên thân cành, sang xuân hình thành bào tử nảy mầm, qua lớp cutin tế bào biểu bì xâm nhập vào bên trong cây. Sợi nấm hút các chất dinh dưỡng của tế bào để phát triển.
Nấm có thể phát sinh trong điều kiện nhiệt độ từ 10-270C. Bệnh thường xuất hiện trong mùa mưa, nhiệt độ thích hợp nhất nấm phát sinh gây hại là 20-250C, ẩm độ >80%. Nếu ẩm độ thấp 77-78% tỷ lệ nhiễm bệnh giảm xuống. Khi nhiệt độ >30% không thích hợp cho nấm phát triển.
Sự phát sinh, phát triển của nấm gỉ sắt cũng có quan hệ mật thiết với điều kiện ngoại cảnh và đặc tính của giống dâu, các giống dâu khác nhau tỷ lệ nhiễm bệnh gỉ sắt khác nhau.
– Biện pháp phòng trừ:
+ Bón phân đầy đủ, cân đối, thu hái kịp thời không để dâu quá lứa, thường xuyên vệ sinh đồng ruộng, tiêu huỷ tàn dư thực vật trong ruộng dâu.
+ Chọn giống kháng bệnh
+ Trồng mật độ thích hợp tạo sự thông thoáng
+ Khi phát hiện có một số lá bệnh ngắt bỏ tiêu huỷ hạn chế lây lan
+ Khi phát bệnh dùng thuốc hoá học Anvil, Ridomil, Kasurane 0,2%, phun định kỳ 20 ngày/ lần trong mùa dịch hại, thời gian cách ly từ 7-10 ngày. Sử dụng lưu huỳnh vôi 0,3-0,4oB; Oxyclorua đồng 0,2%; Polisulfua canxi 3%
1.3. Bệnh nấm trắng hại hom
– Triệu chứng bệnh:
Trên hom vết bệnh có biểu hiện một vài đốm nấm trắng hoặc dạng sợi nấm bám vào hom có dạng đối xứng. Khi cắt hom đem trồng, tại các vết cắt biểu bì hom bị nấm thối và lan dần ra toàn bộ hom.
Thông thường hom dâu bị bệnh khi trồng sẽ bị thối trước khi ra rễ, cũng có khi cây dâu nảy mầm ra rễ rồi vẫn có thể bị chết do nấm trắng. Trong điều kiện nhiệt ẩm độ thích hợp sợi nấm phát triển mạnh hom dâu càng thối nhanh vì thế hom bị chết luôn và không kịp ra mầm và ra rễ
– Nguyên nhân gây bệnh:
Bệnh do nấm corticium centrifugum Bres gây nên. Sợi nấm lúc đầu có màu trắng, sau đó già có màu hơi nâu, sợi nấm có tính chiết quang (làm giảm tốc độ ánh sáng) rất mạnh
– Đặc điểm phát sinh phát triển bệnh:
Nấm trắng hại hom dâu có khả năng thích ứng trong phạm vi rộng nhiệt độ từ 16-270C, độ pH đất 4-5, nhưng thích hợp nhất nhiệt độ 22-250C. Trong điều kiện thuận lợi này, sợi nấm chỉ trong vòng 10-15 ngày có thể kết thành hạt màu trắng.
Trong điều kiện khô hạn nấm trắng có thể kết thành từng hạt. Lúc đầu hạt có màu trắng, sau chuyển dần sang màu cà phê, tạo thành hạt có hình cầu hoặc hình bầu dục. Bào tử túi được sinh ra trên các đảm hình quả lê. Trên mỗi cuống bào tử trần có 4 cuống bào tử nhỏ, trên mỗi cuống nhỏ có một bào tử túi. Bào tử túi có kích thước 3,5- 6 x 5-10µm.
Nấm có thể tồn tại trong đất từ 5-10 năm vẫn nảy mầm được. Ở những vùng đất bãi thấp, trồng dâu bằng hom vào vụ đông, thì hom nảy mầm chậm do nấm xâm nhiễm ký sinh gây hại
– Biện pháp phòng trừ:
+ Làm đất, cầy lật phơi ải trước khi trồng. Kết hợp với một số loại phân bón như xiamit (CaCN2) với hàm lượng 20-22%N và trên 60% Ca trước khi đặt hom 10-15 ngày, với liều lượng 700-900kg/ha
+ Hom trước khi trồng, đem xử lý trong dung dịch lưu huỳnh vôi với nồng độ 0,3-0,5oB hoặc booc đô 1% có tác dụng diệt nấm rất tốt.
+ Cho phun thuốc xử lý đất, rãnh dâu trước khi trồng bằng thuốc Xerezan 0,1% hoặc phalizan 0,1% có tác dụng diệt nấm trong đất và không làm ảnh hưởng đến cây dâu.
1.4. Bệnh nấm trắng hại rễ
– Triệu chứng bệnh và đặc điểm phát sinh phát triển bệnh:
Sợi nấm bao bọc xung quanh mặt ngoài của rễ giống như lớp sợi bông màu trắng. Phần sợi nấm lộ ra ngoài khỏi mặt đất khi tiếp xúc với không khí thì chuyển thành màu tro xám. Sợi nấm trước tiên xâm nhập vào rễ tơ, rễ con phá huỷ tế bào làm thối các loại rễ này, sau đó thâm nhập vào rễ chính làm cho hệ thống hút các chất dinh dưỡng của rễ không hoạt động được.
Phần tiếp giáp giữa thân cây dâu và mặt đất hình thành các bó phân sinh bào tử không màu và có dạng hình trứng. Cây dâu sau khi bị nấm xâm nhiễm sinh trưởng yếu dần, khả năng nảy mầm giảm, kéo dài. Sang mùa hạ lá chuyển dần sang màu vàng và rụng xuống. Đến mùa đông nhiệt độ ngoài trời xuống thấp cây dâu rất dễ bị chết. Trên nền đất trũng hoặc quá ẩm nhiều chất hữu cơ rất dễ phát sinh bệnh
– Nguyên nhân gây bệnh:
Bệnh do mọt loại nấm màu trắng hại ở rễ cây dâu có tên khoa học là Rosellinia necatrix Berlesse. Phổ ký chủ của loại nấm này rất rộng, ngoài cây dâu ra chúng có thể ký sinh gây hại trên nhiều loại cây khác như đào, nho, chè…
– Biện pháp phòng trừ:
Vườn ươm hay ruộng dâu cần chọn ruộng đất cao, thoát nước để trồng. Tuyệt đối không sử dụng cây giống bị nhiễm nấm bệnh để trồng.
Trước khi trồng, xử lý rễ dâu bằng cách nhúng rễ dâu trong dung dịch clorua đồng 1% hoặc nước vôi 20% trong 1giờ, sau đó cho rửa sạch rễ dâu bằng nước sạch rồi mang đi trồng.
Thường xuyên kiểm tra đồng ruộng, nếu phát hiện có nấm bệnh đối với ruộng trồng mới cần cho bón vôi với liều lượng 10tấn vôi bột/ha rồi mới tiến hành trồng dâu.
Vùng đất có nấm bệnh không bón phân hữu cơ, phân rác chưa hoai mục, vì dễ tạo điều kiện cho nấm bệnh phát triển.
II. Bệnh Vi khuẩn
2.1. Bệnh vi khuẩn
– Triệu chứng bệnh:
Cây dâu bị bệnh, ngừng trệ sinh trưởng, mầm nách phát triển yếu và nảy mấm sớm, các bộ phận xanh bị tổn thương. Lúc đầu vết bệnh có hình vòng tròn nhỏ, sau đó chuyển thành màu nâu lá bị biến dạng và thối
– Nguyên nhân gây bệnh:
Có 3 loại vi khuẩn chính gây hại trên cây dâu:
Bacterium moricolum, Yendo và Higuchi: là loại vi khuẩn gây thối, ăn mòn phần dưới cành non, thường gây hại những cành con phía dưới sát mặt đất.Vi khuẩn làm thối rữa các mô xylem và phlolem. Khi cây bị hại lá héo rũ, cành trở nên yếu và dễ gãy
Vi khuẩn Bacterium mori, Boyer và Lambert và vi khuẩn Bacterium cubonianus, Manchiatti là hai loại bệnh thường gây hại cho cây dâu vào mùa mưa. Vi khuẩn Bacterium mori có hình tròn, hình đốm gram âm, khuẩn lạc màu trắng. vi khuẩn Bacterium cubonianus có hình tròn, hình đốm gram dương, khuẩn lạc màu hơi vàng.
– Đặc điểm phát sinh phát triển bệnh:
Khi nhiệt độ, ẩm độ thấp, mầm bệnh tồn tại và ngủ đông trên cành dâu. Sang xuân nhiệt độ, ẩm độ lên cao bệnh phát triển mạnh nhất là vào đầu mùa mưa.
Bệnh xâm nhập và lây lan qua vết thương cơ giới hoặc qua các ký chủ khác
– Biện pháp phòng trừ:
+ Không trồng dâu quá dày, mật độ trồng vừa phải, chế độ canh tác hợp lý.
+ Cày bừa đất kỹ trước khi trồng, kết hợp với xử lý đất bằng Calxium Cynamide 50kg/100m2.
+ Dâu đốn cách mặt đất, tránh xây xước khi đốn và khi thu hoạch lá dâu
+ Thường xuyên vệ sinh đồng ruộng, tiêu huỷ lá bệnh, cành bệnh và các tàn dư gây bệnh
2.2. Bệnh thối ngọn
– Triệu chứng bệnh:
Vết bệnh xuất hiện ở lá non, lúc đầu giống vết dầu loang, sau đó các vết bệnh lớn dần tập trung thành đám lớn, lá khô giòn và rách tạo thành lỗ thủng.
Khi ẩm độ không khí cao, mưa nhiều trên các vết bệnh tiết ra chất dịch nhờn. Vi khuẩn từ đó xâm nhập qua vỏ cành vào các mạch dẫn làm tắc mạch dẫn, ngọn dâu bị mất nước héo rũ và thối chết
– Nguyên nhân gây bệnh:
Bệnh thối ngọn dâu do vi khuẩn Pseudomonas Syringae Val Hall gây nên. Vi khuẩn xâm nhập gây bệnh qua các vết thương và qua khí khổng của lá. Bệnh phát triển và lây lan mạnh sau khi mưa kèm theo có gió mạnh có thể phát thành dịch
– Đặc điểm phát sinh phát triển bệnh:
Bệnh thối ngọn dâu là một trong số bệnh phá hại tương đối nghiêm trọng đối với cây dâu, phân bố rộng khắp các vùng trồng dâu nuôi tăm. Tỷ lệ nhiễm bệnh cao, có những nơi tỷ lệ bệnh lên đến 90%.
Bệnh hại cả ngọn và lá dâu. Khi cây dâu bị bệnh làm cho ngọn và lá dâu bị thối ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây dâu, làm giảm năng suất chất lượng lá dâu.
Ở nước ta vào mùa hè bệnh phát triển mạnh trên các giống dâu nhập nội và các giống dâu địa phương. Khả năng chống chịu bệnh vi khuẩn tuỳ thuộc vào từng giống dâu. Các giống nhập nội như Quảng Đông dâu Quế, Dâu Kinh, dâu Thái Lan bị bệnh nhiều hơn là các giống dâu địa phương giống Hà Bắc, dâu Ngái, Quang Biểu, Bầu đen, bầu trắng…
Đặc điểm bệnh thường phát sinh thành dịch sau các trận mưa lớn nhất là kèm theo gió mạnh. Trên nền đất có độ pH thấp, cây thiếu ánh sáng mọc vóng, ẩm độ không khí cao, khí hậu thay đổi đột ngột bệnh phát triển mạnh.
– Biện pháp phòng trừ:
+ Chọn giống chống chịu bệnh vi khuẩn
+ Phòng trừ sâu hại dâu ăn lá, côn trùng chích hút và trong quá trình chăm sóc thu hái tránh làm xây xước tạo ra vết thương cơ giới để vi khuẩn xâm nhập
+ Thường xuyên vệ sinh đồng ruộng, ngắt bỏ và thu gom các ngọn dâu lá dâu bị bệnh đem đi tiêu huỷ
+ Chăm sóc dâu bón phân hợp lý, NPK cân đối, hái lá kịp thời đúng lứa, ruộng dâu luôn đảm bảo độ thông thoáng.
+ Dùng thuốc hoá học để phòng trừ: Phun thuốc phòng bệnh tại các vết cắt bằng dung dịch huỳnh vôi với nồng độ 0,4-0,5oB hoặc dung dịch booc đô 1% hay nước vôi trong 1%
III. Bệnh virus
3.1.Bệnh xoăn lá
– Phân bố và tác hại của bênh
Bệnh xoăn lá có mặt và gây hại ở các vùng trồng dâu nuôi tằm. Bệnh này phần lớn phát sinh sau khi đốn dâu hè. Lá của cây dâu bệnh nhỏ, cứng sớm. Cành sinh trưởng chậm, cây dâu bị bệnh dần dần yếu, khô héo rồi chết.
Ruộng dâu bị bệnh thì cây bệnh lan nhanh, phát bệnh cao, sau 3-4 năm tỉ lệ cây dâu bệnh có thể tăng lên 80% làm giảm sản lượng 50%.
– Triệu chứng bệnh
Bệnh xoăn lá có thể phân chia ra 3 giai đoạn:
Giai đoạn đầu phiến lá nhỏ lại, mặt lá nhăn nheo. Nếu lá xẻ thuỳ thì biến thành lá nguyên, không xẻ. Diệp tự lá sắp xếp lộn xộn. Đốt ngắn lại, cành nhỏ và ngắn.
Giai đoạn giữa: bộ phận giữa của cành hoặc bộ phận ngọn nảy mầm nách sớm tạo ra nhiều cành tăm. Lá có màu vàng, mặt lá thô cứng, và thu rụng lá sớm. Vụ xuân nảy mầm sớm không có hoa quả.
Giai đoạn cuối: cành sinh trưởng kém rõ rệt, lá bệnh nhỏ. Cành dâu bị bệnh nặng có dạng như cái chổi.
– Nguyên nhân gây bệnh
Nguyên nhân gây ra bệnh này là do virus. Virus có hình cầu, kích thước 80-100nm, có 2 lớp màng cứng, bên trong chứa đầy các hạch có hình sợi hoặc hình hạt tròn.
– Đặc điểm phát sinh phát triển bệnh:
Virus của bệnh này qua đông ở trong cơ thể cây dâu. Nguồn bệnh có thể truyền bệnh thông qua ghép và côn trùng môi giới là rầy xanh.
Sau khi cây dâu nghỉ đông trong cành dâu có nguồn bệnh ít nhất. Lúc này nếu lấy cành ghép của cây bệnh ghép vào gốc ghép không bệnh thì hầu như cây ghép không bệnh. Nhưng nếu gốc ghép bị bệnh mà cành ghép không bệnh thì tỷ lệ truyền bệnh là 100%.
Khi nhiệt độ không khí dưới 200C thì triệu chứng của bệnh ẩn không biểu hiện ra. Khi nhiệt độ tăng lên đến 300C thì triệu chứng bệnh biểu hiện nhanh chóng. Do đó thời kỳ phát sinh bệnh này tập trung phần lớn vào tháng 6-9 trong đó tháng 7-8 phát bệnh đạt đến đỉnh thời kỳ đỉnh cao.
Một số giống dâu dễ nhiễm bệnh, các giống dâu khác nhau có tỷ lệ nhiễm bệnh khác nhau. Ruộng dâu bón phân đạm nhiều bệnh phát triển mạnh
– Biện pháp phòng trị:
+ Trồng giống dâu kháng bệnh và cây giống sạch bệnh
+ Cải tiến phương pháp đốn: Nên luân phiên thời vụ đốn, tức là cứ 2 năm thì đốn một lần ở vụ xuân để khôi phục sức sinh trưởng cho cây dâu.
+ Ruộng dâu bị bệnh nhẹ áp dụng phương pháp cắt, dưỡng, đốn ở vụ hè sớm, hái lá hợp lý ở vụ hè thu để tăng sức đề kháng cho cây dâu giảm tỷ lệ phát bệnh.
+ Khi cây dâu nhiễm bệnh, cần đào bỏ đi kịp thời và đem tiêu huỷ.
+ Vụ mùa hè thu khi hái lá nhiều thì cần phải chừa lại 2-3 lá ở ngọn cành.
+ Bón phân đầy đủ, cân đối hợp lý tránh bón nhiều phân đạm
3.2. Bệnh hoa lá
– Phân bố và tác hại.
Bệnh này chủ yếu phát sinh ở vụ xuân, hè và cuối thu, cây dâu bị bệnh thì lá xoăn và cuốn lại, mặt lá nhăn nheo, cứng sớm. Chất lượng và sản lượng lá ở vụ xuân và hè có ảnh hưởng lớn. Bệnh này có ở vùng sản xuất dâu tằm trọng điểm bị hại nghiêm trọng. Theo kết quả điều tra vườn dâu bị bệnh nhẹ thì tỷ lệ cây bệnh 10% vườn dâu bị bệnh nặng tỷ lệ cây bệnh 90%. Vì thế dẫn tới biên độ giảm sản lượng dao động lớn.
– Triệu chứng bệnh.
Thời kỳ đầu phát bệnh, ở giữa các phân nhánh của phiến lá xuất hiện các chấm xanh hoặc vàng xanh, sau đó các đốm này mở rộng ra và liên kết lại làm cho lá có màu vàng xanh. Còn ở cạnh các gân lá vẫn giữ được màu xanh, từ đó hình thành hoa lá có dạng vàng xanh.
Bệnh phát nặng, lá bệnh nhỏ và nhăn nheo, cuộn lên phía trên, gân lá ở mặt sau có các đám gồ lên, gân nhỏ biến thành màu nâu, có khi mép của phiến lá không có khía xẻ, cành bệnh nhỏ, rất ngắn. Vụ hè, vụ thu lá dâu ở trên cùng một cành bệnh có hiện tượng lá biểu hiện triệu chứng bệnh và có lá không có triệu chứng bệnh.
Khi cây dâu phát bệnh nặng thì lá nhỏ lại và cuộn lên trên, mặt lá thô, gân lá chuyển màu nâu, cành nhỏ ngắn, mầm nách nảy sớm tạo ra nhiều cành tăm, cây dâu bệnh rất dễ bị chết khi nhiệt độ xuống thấp.
– Nguyên nhân gây bệnh:
Nguồn bệnh của bệnh hoa lá là virus ký sinh hình sợi. Virus có chiều rộng là 11-13nm, chiều dài 1000nm. Hai lớp vỏ được cấu tạo 20 axit amin sắp xếp thứ tự. Chiều rộng mỗi lớp vỏ là 5nm.
– Đặc điểm phát sinh phát triển bệnh:
Sự phát sinh bệnh này có quan hệ mật thiết với nhiệt độ, ở nhiệt độ 25oC trở xuống triệu chứng bệnh hoa lá được biểu hiện ra. Trên 35oC thì bệnh ở trạng thái ẩn. Người ta gọi là triệu chứng ẩn nhiệt độ cao vì thế bệnh này phát ra chủ yếu ở mùa xuân và thu. Sau khi đốn hè do nhiệt độ không khí tăng cao nên triệu chứng của bệnh dần dần mất đi, cây dần khôi phục sự sinh trưởng bình thường. Đến cuối vụ thu khi nhiệt độ giảm thấp thì triệu chứng bệnh lại xuất hiện mới. Lá ở trên cành bệnh có hiện tượng biểu hiện triệu chứng bệnh xen kẽ.
Nguồn bệnh của bệnh hoa lá qua đông ở trong cành dâu. Nguồn bệnh chủ yếu thông qua cây con và gốc ghép lan truyền bệnh. Cành ghép có bệnh mà ghép lên gốc ghép sạch không bệnh thì tỷ lệ truyền bệnh là 80%. Nguồn bệnh cũng có thể thông qua chất dịch để lây lan.
Vườn dâu ở vị trí thấp, thoát nước không tốt thì tỷ lệ bệnh cao hơn, nặng hơn. Ngược lại thì tỷ lệ bệnh ít hơn, nhẹ hơn. Sức đề kháng bệnh giữa các giống dâu có sự sai khác rất rõ. Cây dâu còn non thì tỷ lệ phát bệnh ít, cây dâu gìà thì phát bệnh nhiều. Phân bón không đủ hoặc bón đạm nhiều thì cây dâu bị bệnh nặng. Bón phân hữu cơ hoặc nước tiểu thì khống chế được sự phát sinh bệnh này.
– Biện pháp phòng trị.
+ Tăng cường kiểm dịch cây.
+ Trồng cây dâu không bệnh: chọn vùng sản xuất dâu không có bệnh để gieo hạt, chiết ghép sử dụng. Không lấy cây dâu ở vùng có bệnh, làm hom gốc ghép và cành ghép.
+ Ở vùng mới trồng, khi phát hiện thấy một số ít cây dâu bị bệnh thì nhổ kịp thời đem thiêu đốt cây bệnh để hạn chế sự lây lan bệnh.
+ Chọn giống dâu kháng bệnh để trồng nhất là vùng sản xuất bị bệnh nặng
+ Tăng cường quản lý chăm sóc ruộng dâu: vườn dâu đã bị bệnh nặng cần tăng cường bón phân hữu cơ, chú ý làm hệ thống mương tiêu nước để không bị úng ngập giảm sự phát sinh bệnh.
– Sự phân bố và tác hại của bệnh.
Bệnh này phân bố rộng khắp ở các vùng trồng dâu nuôi tằm trong nước và nhiều nước trên thế giới. Cây dâu khi phát bệnh cành nhỏ và ngắn lại, lá nhỏ và rụng sớm. Cành bên mọc ra nhiều tạo thành cây có dạng hình chổi, lá dâu bị bệnh không thể nuôi tằm được. Bệnh nặng thì sau vài năm cây dâu này sẽ bị chết.
Sau khi đốn dâu vụ hè tháng 4-5, đến tháng 6-8 bệnh sẽ phát nhiều. Vườn dâu bị bệnh nghiêm trọng có thể tỉ lệ cây bị bệnh lên tới mức 20-40%, thậm chí trên 90% cây dâu nhiễm bệnh làm cho vườn dâu phải bỏ đi mới trồng được 1 năm hoặc 2,3 năm.
– Triệu chứng của bệnh.
Cây dâu ở thời kỳ đầu mới phát bệnh, trên cây chỉ có một ít cành bệnh các lá non ở phía ngọn cành xoăn lại và có màu vàng. Sinh trưởng của cành rất yếu ớt, các mầm nách phát sinh ra nhiều cành bên. Các cành bên này vừa nhỏ vừa ngắn, phiến lá ở trên cành này mỏng và nhỏ. Lá có màu vàng, mỏng, nhỏ và rất dễ rụng.
Khi bệnh phát ra, trước tiên từ một số cành bệnh sau đó lan toả ra tất cả cành trên cây. Cây dâu bị bệnh nặng nếu thông qua việc đốn hè nhiều tán cây có dạng hình chổi, lá nhỏ đi, cành bên mọc nhiều. Sau 2-3 năm cây dâu sẽ khô héo và chết.
Những cành dâu bị bệnh không ra hoa, ra quả nhưng các cành khoẻ ở cùng một cây dâu bị bệnh thì vẫn có hoa có quả. Mùa đông, các cành bệnh phần nhiều bị khô phần ngọn cành, rễ cây dâu bệnh màu sắc không tươi.
– Nguyên nhân phát sinh bệnh.
Virus của cây dâu bị bệnh vàng xoăn lá thuộc dạng vàng ở dạng Mycoplasma-like organisma. Đại bộ phận đều có hình viên tròn, có kích thước to nhỏ dao động trong khoảng 80-1000 nm. Bên trong có hạch hình dạng sợi, có cấu tạo màng đơn. Màng tế bào hạch chia ra 3 lớp, 2 lớp ngoài cùng là màng Protid, màng giữa tương tự màng lipit, ngoài ra còn có thể thấy một số lượng lớn các hạt nhỏ của thể virus. Mật độ điện tử của các hạt nhỏ này tương đối cao, đó là loại hình phát dục của virus.
– Đặc điểm phát sinh phát triển bệnh:
Nguồn bệnh virus của bệnh xoăn lá dạng vàng lá qua đông ở bên trong cơ thể cây dâu. Nguồn bệnh này khi qua đông chủ yếu ở bộ phận rễ chính
Phương thức truyền nhiễm của virus bệnh xoăn lá dạng vàng lá có 2 phương thức là truyền nhiễm qua ghép và côn trùng môi giới rầy xanh. Hạt dâu, dịch cây và đất không truyền nhiễm.
Nguồn virus sau khi xâm nhập vào trong cây dâu không phát bệnh ngay, mà nguồn virus này ở trong cây dâu cần quá trình phân chia để tăng số lượng. Thời kỳ này người ta gọi là thời kỳ tiềm ẩn của virus. ở trong điều kiện tự nhiên thì thời kỳ tiềm ẩn này kéo dài từ 25-108 ngày nhưng phần lớn là 36-45 ngày.
Thời kỳ cây dâu sinh trưởng mạnh, lá non nhiều, bón phân tăng đều có lợi cho sự sinh trưởng phát triển của rầy xanh, vì vậy bệnh xoăn lá phát sinh nhiều.
Mùa hè, mùa thu khi hái dâu quá nhiều làm cho cây dâu bị già yếu phát bệnh xoăn lá dạng vàng lá, nếu đốn hè càng muộn thì tỷ lệ bệnh càng cao. Ruộng dâu chuyên đốn hè tỷ lệ bệnh cao hơn ruộng chuyên đốn đông.
Vườn dâu bón loại phân có hiệu quả nhanh như phân đạm thì tỷ lệ bệnh cao. Vườn dâu bón cân đối hợp lý thì tỷ lệ bệnh thấp, mức độ bệnh nhẹ. Dâu trồng ở đất cát pha thì tỷ lệ cây dâu bị xoăn lá nặng hơn đất màu, đất sét.
– Phương pháp phòng trị bệnh.
+ Tăng cường mở rộng trồng các giống dâu kháng bệnh.
+ Kịp thời nhổ, đào tận gốc những cây dâu đã bị bệnh xoăn lá, hố đào phải được xử lý bằng vôi bột để tiêu diệt, khống chế nguồn bệnh lây lan ra xung quanh. Trong một năm tiến hành đào nhổ 3 lần. Lần thứ nhất vào tháng 6. Lần thứ hai vào trung tuần tháng 7 và lần thứ ba vào trung hạ tuần tháng 9. Khi đào cây dâu bệnh cần phải làm triệt để. Đối với một số cây tuy chỉ có một số ít cành bị bệnh đều cần phải đào hoặc cắt bỏ cành bệnh, thân bệnh.
+ Phòng trị sâu hại kịp thời:
Đối với rầy xanh thì một năm cần phòng trị 3 lần, lần thứ 1 vào trung hạ tuần tháng 4, đây là thời kỳ nở của sâu tập trung nhất; Lần thứ hai sau khi đốn dâu mùa hè; Lần thứ ba vào tháng 7-8. Phớt ngọn cành dâu ở vụ đông, rồi đem tiêu huỷ để diệt trứng qua đông của rầy. Phun thuốc diệt côn trùng môi giới truyền bệnh khi cần thiết
+ Trồng cây dâu không bệnh: Không được dùng cây bị bệnh làm cành, gốc ghép, hom giống ; chọn giống kháng bệnh; trồng giống dâu nhân giống bằng hạt.
Thường xuyên kiểm tra để phát hiện và nhổ bỏ cây bệnh, phải kiểm tra nhổ cây bệnh không dưới 3 lần, lần 1 sau khi cây ghép mọc khỏi mặt đất 15-25 ngày, lần 2 vào trung tuần tháng 8 và lần 3 vào trung tuần tháng 10.
+ Hái lá hợp lý, tăng cường chăm sóc cho cây dâu khoẻ. Thời vụ tằm đầu thu và giữa thu không nên hái lá ở cây dâu mới trồng, cuối thu có thể hái lá nhưng phải chừa lại ở phần ngọn cành từ 6-9 lá tạo cho cây hoạt động quang hợp bình thường, tích lũy chất dinh dưỡng tăng cường sức đề kháng của cây.
+ Chăm sóc ruộng dâu không bị ngập úng, bón phân NPK cân đối
+ Luân phiên đốn hè và đốn đông, thời vụ đốn hợp lý hạn chế đốn trái vụ.
3.4. Bệnh đốm vòng
– Sự phân bố và tác hại của bệnh.
Bệnh đốm vòng là một bệnh rất phổ biến trên ở nước ta và nhiều nước khác trên thế giới. Bệnh có tác hại rất lớn đến quá trình sinh trưởng và phát triển của cây. Khi cây bị bệnh một số bộ phận của cây như lá bị hủy hoại, biến dạng xoăn nhỏ lại dễ bị rụng, cành cây nhỏ và ngắn phát sinh nhiều cành tăm gây khó khăn cho việc thu hái. Mầm dâu bị đui lụi không nảy mầm được… sau một vài năm cây sẽ bị chết dẫn tới làm giảm sút năng suất. Chất lượng lá dâu bị bệnh giảm giá trị dinh dưỡng không đáp ứng đủ cho nhu cầu của con tằm.
– Triệu chứng của bệnh.
Lá dâu bị bệnh có biểu hiện đốm tròn sáng, những lá bị nhiễm nặng có thể bị mất diệp lục thành những vùng lớn tạo nên khảm xanh đậm nhạt và cuộn xoắn; những triệu chứng này rất giống với triệu chứng do virus gây bệnh đốm hình nhẫn gây ra như MRSV (Mulbery ringspot virus), TRSV (tobacco/tomato ringspot virus), CRSV (citrus ringspot virus), Pepper ringspot virus…
Đặc điểm chính của bệnh là làm lùn cây, lá bị khảm và biến dạng, tạo đốm có dạng như một cái vòng màu xanh mờ trên lá, quả, hay tạo các sọc xanh trên ngọn thân và cuống lá. Ở mặt trên của các lá gần đỉnh sinh trưởng, vùng mô lá ở giữa gân phụ và gân nhánh bị nhăn phồng. Trên mặt lá non bị cuốn vòng vào theo mặt dưới lá, trên mặt lá già thì cuốn lên.
– Nguyên nhân phát sinh bệnh.
Bệnh đốm vòng còn gọi là bệnh đốm hình nhẫn do papaya ringspot virus (PRSV) gây ra có kích thước 1074 bp. Đây là nhóm virus thực vật lớn nhất, thuộc chi Potyvirus, họ Potyviridae (Reichmann et al., 1992). PRSV được chia thành hai chủng là: PRSV-w và PRSV-p. Dùng kỹ thuật RT-PCR để phát hiện sớm và chính xác sự có mặt của virus trong mẫu bệnh bằng việc sử dụng cặp mồi đặc hiệu cho virus đó PRSV-F/PRSV-R
– Đặc điểm phát sinh phát triển bệnh:
Nguồn bệnh virus qua đông ở thân, cành dâu nhưng tập trung chủ yếu là ở trong rễ. Bệnh được lan truyền qua hom giống, cây chiết, cây ghép, côn trùng môi giới rầy xanh, bọ phấn. Nguồn bệnh không truyền qua hạt dâu và dịch cây.
Nguồn virus sau khi xâm nhập vào trong cây dâu, sau một thời gian khi số lượng virus đạt ngưỡng nhất định mới phát bệnh. Đây được gọi là thời tiềm ẩn của virus. Thời kỳ tiềm ẩn dài hay ngắn còn tuỳ thuộc vào sức đề kháng của từng giống dâu, thời tiết khí hậu và điều kiện canh tác của từng vùng.
Ruộng dâu trồng các giống dâu khác nhau thì mức độ nhiễm bệnh virus là khác nhau. Cây dâu còn non thì tỷ lệ phát bệnh ít, cây dâu càng già thì phát bệnh nhiều. Phân bón không cân đối, bón đạm nhiều thì cây dâu bị bệnh nhiều.
Vụ xuân và vụ thu bệnh xuất hiện ít hơn vụ hè. Ruộng dâu đốn hè càng muộn thì tỷ lệ bệnh càng cao. Ruộng dâu chuyên đốn hè tỷ lệ bệnh cao hơn ruộng chuyên đốn đông.
– Phương pháp phòng trị bệnh.
+ Trồng cây dâu không bệnh: Không được dùng cây bị bệnh làm cành, gốc ghép, hom giống; chọn giống kháng bệnh; nên trồng các giống dâu được nhân giống bằng hạt.
+ Nếu phát hiện cây bị bệnh, phải nhổ bỏ và đốt, hố nhổ cây bệnh cần được xử lý bằng vôi bột để hạn chế lây lan sang cây không bị bệnh.
+ Chăm sóc cây dâu sinh trưởng tốt, thường xuyên vệ sinh đồng ruộng, thu hoạch đúng lứa không để ruộng bị ngập úng, bón phân NPK cân đối.
+ Ruộng dâu cần được luân phiên đốn vụ hè và đốn vụ đông. Đảm bảo đốn đúng thời vụ và tránh đốn nhiều lần/năm.
+ Phun thuốc diệt côn trùng môi giới truyền bệnh